Chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam Chính_phủ_bù_nhìn

Cuộc diễn hành của một tiểu đoàn Quân đội Quốc gia Việt Nam tại Hà Nội

Quốc gia Việt Nam

Lính quốc gia Việt Nam làm lễ chào cờ Pháp và Quốc gia Việt Nam tại Bắc Ninh

Dưới sự bảo hộ của Đế quốc Nhật Bản, ngày 11/3/1945, vua Bảo Đại giải tán nội các cũ và thành lập Đế quốc Việt Nam, vua Bảo Đại tuyên bố "Kể từ ngày hôm nay, Hòa ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp được hủy bỏ và vô hiệu hóa. Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một quốc gia Độc lập.".[4]. Tuy nhiên, các tài liệu lịch sử của phương Tây đều cho rằng Đế quốc Việt Nam là chính phủ bù nhìn do Đế quốc Nhật Bản dựng nên và không có thực quyền[5]. Nó được xếp chung với các chính phủ bù nhìn do Nhật thành lập tại các nước bị họ chiếm đóng trong thế chiến thứ 2 như Mãn Châu quốc, Chính phủ Uông Tinh Vệ, Mông Cương, Đệ nhị Cộng hòa Philippines...

Tranh thủ thời cơ Quân đội Đế quốc Nhật Bản án binh bất động chờ giải giới và sự ủng hộ của đông đảo quần chúng, Mặt trận Việt Minh (trước đó vốn được OSS hỗ trợ trong việc cung cấp vũ khí, tuyên truyền quần chúng và đào tạo sĩ quan, binh lính để chống Nhật) đã tiến hành cuộc Cách mạng tháng Tám giành chính quyền trên cả nước từ tay Đế quốc Việt Nam, trước khi các lực lượng quân sự nước ngoài cũng như các tổ chức chính trị khác, trong đó một số được sự hậu thuẫn từ nước ngoài, kịp phản ứng, lập nên chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Ngày 23 tháng 8 năm 1945, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị để trao quyền cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[6]

Như vậy, khác với Chiến tranh Triều Tiên, trước khi chiến tranh Đông Dương nổ ra thì Việt Nam đã tuyên bố độc lập. Trong thời gian trước khi quân đồng minh vào Việt Nam giải giáp quân đội Nhật, chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa do Việt Minh lãnh đạo đã kịp thực hiện tuyên bố độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Nhà nước này đã ban hành nhiều sắc lệnh, tổ chức chính quyền các cấp và thực hiện tuyển cử Quốc hội trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Dù các chính trị gia đối lập với Việt Minh cáo buộc cuộc tuyển cử là không công bằng (xem thêm Quốc hội Việt Nam khóa I), nhưng đây có thể được xem là chính phủ dân cử đầu tiên do người Việt Nam tự thiết lập và được đánh giá mang tính chính danh.

Sau đó, bằng việc ký kết Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt (1946) ngày 6 tháng 3 năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Pháp công nhận là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng.[7] Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp tiếp tục đàm phán tại Hội nghị Fontainebleau 1946 về nền độc lập của Việt Nam trong Liên hiệp Pháp và việc thống nhất Việt Nam. Hội nghị Fontainebleau thất bại nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn ký với Pháp Tạm ước Việt - Pháp về quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp trên các phương diện văn hoá, tiền tệ, thuế quan,... và đảm bảo tôn trọng các lợi ích kinh tế, văn hóa của Pháp tại Việt Nam.

Năm 1945, nhằm thành lập Liên bang Đông Dương theo những ý tưởng đã được nêu trong Tuyên bố ngày 24 tháng 3 năm 1945 của chính phủ Charles de Gaulle, người Pháp cho phép thành lập một nhà nước tại Nam Kỳ với tên gọi Cộng hòa tự trị Nam Kỳ (République autonome de Cochinchine), còn được gọi là Nam Kỳ Quốc, vào tháng 6 năm 1946, do bác sĩ Nguyễn Văn Thinh làm Thủ tướng. Những người ủng hộ Việt Minh đã kết án chính phủ Nam Kỳ Quốc là một chính phủ bù nhìn vì trên thực tế chính phủ này phụ thuộc Pháp về tài chính, và quân sự. Ngoài ra Cao ủy Pháp tại Đông Dương còn có quyền phê chuẩn hoặc bác bỏ mọi bổ nhiệm của Thủ tướng Nam Kỳ quốc. Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol đã ký với cựu hoàng Bảo Đại Hiệp ước Elysée công nhận Việt Nam là nước độc lập nằm trong Liên hiệp Pháp. Sau đó, ngày 22 tháng 5 năm 1949, Quốc hội Pháp bỏ phiếu thông qua quyết định trả thuộc địa Nam Kỳ cho Quốc gia Việt Nam.

Quốc gia Việt Nam (hậu thân là Việt Nam Cộng Hòa) do Bảo Đại đứng đầu cũng được thành lập thông qua đàm phán giữa Pháp và các chính trị gia có lập trường chống Việt Minh, được Pháp coi là "Giải pháp Bảo Đại". Kỳ thực Pháp coi giải pháp Bảo Đại chỉ là do tình thế thúc ép, họ không tin tưởng và tôn trọng chính phủ này. Năm 1949, Tổng tham mưu trưởng lục quân Pháp, đại tướng Revers sau chuyến khảo sát tình hình Đông Dương đã có bản tường trình mật trong đó viết: "Vấn đề điều đình với Việt Nam thì tìm những người quốc gia chống cộng để điều đình. Giải pháp Bảo đại chỉ là một giải pháp thí nghiệm, nhưng chế độ Bảo Đại là một chế độ ung thối với sự tham nhũng, buôn lậu đồng bạc, buôn lậu giấy phép nhập cảng, những khu chứa cờ bạc đĩ điếm..." (Trung tâm du hí Đại thế Giới ở Chợ Lớn được chính phủ Bảo Đại cho phép công khai sòng bạc và chứa mại dâm để kiếm chác). Bản tường trình sau đó bị lộ khiến chính phủ Pháp "muối mặt", và Revers bị cho về hưu non sau khi ra khai trình tại Hội đồng tối cao quân lực. Bản thân Bảo Đại cũng nhận xét rằng: "Cái được gọi là giải pháp Bảo Đại thực ra là giải pháp của người Pháp."[8]

Tháng 10/1951, nghị sĩ John F. Kennedy - về sau trở thành Tổng thống Mỹ - đã đến Việt Nam để khảo sát. Lúc đó, Mỹ đang tài trợ một cách hào phóng cho chiến tranh của thực dân Pháp ở Đông Dương, hưng Kennedy tự hỏi: tại sao viện trợ Mỹ vẫn không thể giúp Pháp chiến thắng? Ông nêu lên một câu hỏi khiến tướng De Lattre, Cao ủy kiêm Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương phải tức giận: “Tại sao ông có thể trông mong người Việt Nam (Quốc gia Việt Nam) chiến đấu (chống lại Việt Minh) để duy trì nước họ như một bộ phận của Pháp?". Về lại Mỹ, JFK phát biểu ngày 15-11-1951 trên đài phát thanh[9]:

“Các xứ Đông Dương là những chính phủ bù nhìn, những lãnh địa của các ông hoàng (chỉ cựu hoàng Bảo Đại và các quốc vương Lào và Campuchia) thuộc Pháp với tài nguyên to lớn nhưng là những ví dụ điển hình của đế quốc và thực dân mà người ta có thể thấy bất kỳ nơi đâu… Ở Đông Dương, chúng ta [Mỹ] đang liên kết với nỗ lực tuyệt vọng của một đế chế Pháp muốn bám lấy những mảnh còn lại của đế quốc”. Kết quả là (chúng ta) không có sự ủng hộ sâu rộng của nhân dân Việt Nam đối với chính phủ bản xứ (tức chính phủ Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại)”

Việt Nam Cộng hòa

Bài chi tiết: Việt Nam Cộng hòa
Người biểu tình phản chiến Mỹ với sự châm biếm "Đế quốc Mỹ và Con rối Sài Gòn"

Sau khi Pháp thất bại, Quốc gia Việt Nam theo Pháp tập trung vào miền Nam Việt Nam. Dưới sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, Bảo Đại bị Ngô Đình Diệm phế truất thông qua một cuộc bầu cử bị tố cáo là gian lận (Ví dụ tại Sài Gòn, Ngô Đình Diệm được 605.025 lá phiếu trong khi khu vực này chỉ có 450.000 cử tri)[10][11]. Sau đó, chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức bầu Quốc hội lập ra nền Đệ Nhất Cộng hòa và Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Việt Nam Cộng Hòa. Hoa Kỳ hậu thuẫn mạnh mẽ cho Việt Nam Cộng Hòa nhằm mục tiêu bảo vệ các chính phủ thân Mỹ ở Đông Nam Á trước sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản. Tài liệu được giải mật của Lầu Năm Góc vào năm 2010 cũng viết: "Không có sự yểm trợ của Hoa Kỳ, Diệm hầu như chắc chắn không thể đứng vững được ở miền Nam... Nam Việt Nam về bản chất là một sáng tạo của Hoa Kỳ"[12].

Trao đổi với BBC Tiếng Việt, ông Bùi Diễm, Đại sứ của Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ trong thời kỳ 1967-1972, nói: "Mình phải nhìn Việt Nam trong bối cảnh của một cuộc chiến tranh lạnh thời bấy giờ, người Mỹ mà can thiệp vào vấn đề Việt Nam là do chính sách gọi là 'be bờ' chống lại sự lan rộng của phong trào cộng sản xuống miền Nam Việt Nam. Nếu mà nói tới sự có mặt của người Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam, thì người ta cũng phải nói tới sự có mặt của những quân đội Trung Quốc ở miền Bắc trong suốt trận chiến tranh, những quân đội đó không tham gia vào trận chiến đối với miền Nam, nhưng đã giúp những người ở miền Bắc có tất cả sự dễ dàng để có thể mang quân đội để mà tấn công xuống miền Nam Việt Nam" [13] Tuy nhiên, khác với Việt Nam Cộng Hòa, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa duy trì được sự độc lập khi không chấp nhận cho Trung Quốc, Liên Xô đem quân tới Việt Nam trực tiếp tham chiến hoặc can thiệp vào đường lối chiến lược của mình.[14] Có những lúc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã từ chối nhận viện trợ của Trung Quốc nếu khoản viện trợ đó đi kèm những điều kiện được xem là vi phạm chủ quyền của Việt Nam[15].

Năm 1963, các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm với cam kết của Hoa Kỳ sẽ không cản trở cuộc đảo chính vì lực lượng đảo chính và Hoa Kỳ không bằng lòng với cách điều hành và thái độ bất hợp tác của ông ta. Ngày 1-2-1966, Tổng thống Mỹ Johnson đã gọi điện thoại cho Thượng Nghị Sĩ Eugene McCarthay, nhắc lại chuyện chính quyền Kennedy đã tham gia cùng "bọn du côn" (phe đảo chính) để hạ sát Ngô Đình Diệm vì ông ta đã trở nên suy đồi.[16]

Ngày 8/3/1965, Mỹ chính thức đổ quân viễn chinh lên Đà Nẵng. Phía Mỹ đã không thông báo cho Việt Nam Cộng hòa về thời gian và địa điểm đổ quân, mặc dù bản tin của Bộ Quốc phòng Mỹ 2 ngày trước tuyên bố rằng Mỹ đổ quân vào miền Nam Việt Nam là theo yêu cầu của chính phủ Sài Gòn. Sáng 8/3, một sĩ quan Mỹ đến gặp Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa là Phan Huy Quát, yêu cầu soạn thảo một thông cáo chung bằng hai thứ tiếng Anh-Việt để thông báo rộng rãi, lúc đó ông Quát mới biết quân Mỹ đã đổ bộ vào Việt Nam. Theo báo Đà Nẵng điều này cho thấy Mỹ rất coi thường và không tin tưởng chế độ Việt Nam Cộng hòa[17]. Khi biết tin thì quân Mỹ đã đổ bộ rồi, Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa phải hợp thức hóa việc này bằng cách gọi Tổng trưởng Phủ Thủ tướng là Bùi Diễm cùng với một viên chức Mỹ là Melvin Manfull soạn ngay thông cáo chào mừng quân Mỹ, với chỉ đạo: "Viết càng ngắn càng tốt. Chỉ mô tả sự kiện rồi khẳng định rằng chúng ta đã đồng ý mà thôi"[18]. Trong những tháng sau đó, Mỹ đổ bộ hàng chục vạn quân, lính Mỹ hiện diện ở khắp miền Nam.

Tại Hiệp định Paris, chỉ có Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa họp kín với nhau để thỏa thuận chi tiết Hiệp định Paris, Việt Nam Cộng Hòa không được tham gia. Sau đó Mỹ đã gây sức ép buộc Việt Nam Cộng hòa ký kết Hiệp định Paris dù Việt Nam Cộng hòa phản đối do hiệp định có các điều khoản bất lợi cho họ. Tổng thống Mỹ Nixon gửi thư ngầm cảnh báo Nguyễn Văn Thiệu nếu không chấp nhận thì sẽ có kết cục như Ngô Đình Diệm. Ông còn nói với ngoại trưởng Henry Kissinger rằng: "Không thể để cái đuôi chó phản lại cái đầu con chó được"[19].

Trong bản ghi âm được giải mật sau này về cuộc trao đổi giữa Tổng thống Mỹ Richard Nixon và ngoại trưởng Henry Kissinger, Nixon nói rõ việc ông quyết định sẽ bỏ mặc "đứa con" Việt Nam Cộng hòa để nước Mỹ có thể thoát khỏi cuộc chiến ở Việt Nam[20]

Henry Kissinger: Tôi nghĩ Thiệu nói đúng đấy. Hiệp định đó (Hiệp định Paris) sẽ đẩy Việt Nam Cộng hòa vào thế nguy hiểmRichard Nixon: Nó (Việt Nam Cộng hòa) phải tự chống đỡ thôi... Nếu nó chết thì cứ để cho nó chết. Nó lớn rồi, chúng ta không thể cứ cho nó bú mớm mãi được

Trong khi đó, đối với Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, các đường lối chiến lược về quân sự, ngoại giao và việc đàm phán với Hoa Kỳ đều do họ tự hoạch định và tiến hành, không chịu sự điều khiển từ cả Liên Xô và Trung Quốc. Họ không từ bỏ các kế hoạch của mình dù cho Liên Xô và Trung Quốc gây sức ép[14] Thực tế chỉ 4 năm sau chiến tranh, Việt Nam đã có các cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc, mà Trung Quốc tuyên bố là để "dạy cho Việt Nam một bài học", Theo Edward C. O'dowd, đó là do Việt Nam không chấp nhận yêu cầu của Trung Quốc là phải chấm dứt quan hệ ngoại giao với Liên Xô, cũng như từ bỏ việc tuyên bố chủ quyền tại 2 quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa[21].

Ngày nay, nhiều sử gia cho rằng Việt Nam Cộng hòa này là một chính phủ con rối của Mỹ.[22] Chuyên gia bình định, Trung Tá Mỹ William R. Corson thừa nhận rằng "vai trò của chế độ bù nhìn của Mỹ ở miền Nam Việt Nam là "cướp bóc, thu thuế, tái lập lại địa chủ, và tiến hành trả thù chống lại người dân". Nhà sử học James Gibson tóm tắt tình hình: "Chế độ miền Nam Việt Nam không có khả năng chiến thắng vì không có sự ủng hộ của những người nông dân, nó đã có không còn là một "chế độ" theo đúng nghĩa. Liên minh chính trị bất ổn định và hoạt động bộ máy thì quan liêu. Hoạt động của chính phủ dân sự và quân sự đã hầu như chấm dứt. Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã gần như tuyên bố quyền kiểm soát tại các khu vực rộng lớn... nó rất khác với một chính phủ Sài Gòn yếu ớt, không có nền dân chủ cơ bản và một mong muốn mạnh mẽ cho sự thống nhất Việt Nam"[23].

Nguyễn Thị Bình, Ngoại trưởng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, sau này là Phó Chủ tịch nước của nước Việt Nam thống nhất cho rằng[24]:

"Nói về cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước vừa qua, mọi người đều hiểu đó là cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam từ Nam chí Bắc chống sự xâm lược của Mỹ, để giải phóng dân tộc, giành độc lập và thống nhất đất nước. Cũng có người cho rằng cuộc chiến tranh có yếu tố "nội chiến", đó là do chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ đã đẩy một số người Việt Nam (chỉ Việt Nam Cộng hòa) chống lại nhân dân của mình".